Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014

(P2) Chín muồi tới mức độ nào?...(Nguyễn Gia Kiểng)

Posted By Unknown on Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014 | 22:03

“…Quần chúng Việt Nam đã chín muồi cho một cuộc chuyển động về dân chủ nhưng trí thức thì không. Chúng ta giống như một đoàn tàu mà các toa tầu đều đã sẵn sàng nhưng động cơ chưa chạy…”

Tháng 01-2013. Bạn tôi vừa về thăm nhà trong một tháng. Anh ta về Việt Nam rất thường xuyên. Việt kiều tốt, nhiều lần được tuyên dương, hộ chiếu năm năm. Lần này gặp tôi anh nói một cách sôi nổi: "Việt Nam đã chín muồi cho một cuộc thay đổi chế độ rồi". Kế tiếp là một tường thuật chi tiết và chính xác về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Anh là một chuyên gia cao cấp và cũng có kiến thức cao về chính trị. Anh rất quả quyết, một trong những lý do là: "Trong suốt một tháng tao không thấy ai không chửi Nguyễn Tấn Dũng". Nhưng khi tôi hỏi: "Liệu có chín muồi đến độ dân chủ có thể thắng mà không cần một tổ chức dân chủ mạnh không?" thì anh như bị mất hứng, vì câu hỏi gợi lại nhiều cuộc thảo luận giữa chúng tôi trước đây.

Sự kiện quan trọng nhất trong năm 2012 là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chết (1). Chết thực sự dù chưa khai tử. Đó đã là năm mà những cố gắng phi thường đã được đổ ra để chấn chỉnh và cứu đảng, với kết quả là một con số không. Hội nghị trung ương 6, và kỳ họp quốc hội ngay sau đó, đã chứng tỏ một cách hùng hồn rằng căn bệnh của ĐCSVN không có thuốc chữa.

Đối với đời sống dân chúng sự kiện quan trọng nhất là kinh tế sa sút. Sa sút rất nặng dù chính quyền vẫn còn biện luận lúng túng đàng sau những con số thống kê giả tạo. Đà suy sụp là chắc chắn và không thể đảo ngược được vì chế độ CSVN đã bị các nước dân chủ và các nhà đầu tư nhìn như một chế độ côn đồ trong khi kinh tế Việt Nam quá phụ thuộc ngoại thương. Năm 2013 rất có thể sẽ là năm mà kinh tế phá sản, kéo theo những thảm kịch tương tự như trong thập niên 1980. Khác ở chỗ quần chúng Việt Nam ngày nay có sức mạnh hơn, hiểu biết hơn và ít sợ hơn. Bạo loạn có thể bùng nổ.

Đối với những người dân chủ năm 2012 đã là năm gia tăng đàn áp. Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) làm gì mà bị xử 12 năm tù sau khi đã ở tù ba năm? Điếu Cày viết rất ít và những gì anh viết ra cũng không thách đố chính quyền. Điếu Cày và Tạ Phong Tần bị trừng phạt nặng vì họ bị coi là đầu tàu của một tổ chức đang thái nghén: Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do, trong khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố là nhất định không để "nhen nhúm" những tổ chức đối lập. Một tội nặng khác của Điếu Cày và Tạ Phong Tần là họ đã xuất hiện như những người dẫn đầu các cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Năm 2012 cũng đã là năm mà chính quyền CSVN khẳng định đứng hẳn về phía Trung Quốc. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, một trong vài người nhiều quyền lực nhất hiện nay, tuyên bố thẳng thừng: "Việt Nam không còn bất cứ băn khoăn gì khi hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh vực ". Không còn bất cứ băn khoăn nào dù Trung Quốc cắt dây cáp tầu thăm dò địa chấn của Việt Nam ngay trong hải phận Việt Nam, tiếp tục khủng bố ngư dân Việt Nam và cho in hình Hoàng sa, Trường Sa và cái lưỡi bò lên hộ chiếu. Không còn băn khoăn vì một lý do giản dị là không được quyền băn khoăn nữa, họ đã chấp nhận phục tùng Trung Quốc vô điều kiện. Chọn lựa ô nhục và tai hại này dĩ nhiên là nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận và có hậu quả là đổ thêm dầu vào lửa phẫn nộ của nhân dân.

Tóm lại nhân dân phẫn nộ và không còn sợ như trước nữa trong khi chính quyền đã quyết định đàn áp thẳng tay. Xung đột chính quyền – nhân dân đã đi vào logic leo thang trong khi chính quyền cộng sản đã rạn nứt dưới trọng lượng của những xung đột nội bộ. Bạn tôi quả là có lý do để nghĩ rằng Việt Nam đã chín muồi cho cuộc cách mạng dân chủ.

Câu hỏi của tôi làm anh khựng lại bởi vì chúng tôi đã từng là chí hữu. Cách đây ba mươi năm chúng tôi đã cùng tham gia thành lập một nhóm chính trị sau này mang tên Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Trừ hai chuyên gia mà anh bạn là một, tất cả đều là những cựu viên chức cao cấp của chế độ Việt Nam Công Hòa đã suy nghĩ rất nhiều trong tù sau ngày 30-4-1975. Đồng thuận đầu tiên của chúng tôi là nhất định phải thay đổi chế độ thì đất nước mới có thể tồn tại và vươn lên, nhưng cũng không thể có vấn đề phục hồi chế độ VNCH; đấu tranh chính trị từ nay chỉ có ý nghĩa và hy vọng nếu là cuộc đấu tranh vì dân chủ bằng phương thức bất bạo động qui tụ một cách bình đẳng những người dân chủ thuộc mọi quá khứ chính trị. Sau đó chúng tôi dành trọn hai năm để nghiên cứu và thảo luận trong tinh thần gạt bỏ mọi trói buộc và thành kiến để khảo sát thực trạng Việt Nam và tất cả những thay đổi chế độ đã diễn ra trên thế giới. Đó đã là hai năm của một cuộc thám hiểm trí tuệ sôi sục và đầy đam mê. Kết luận của chúng tôi là cuộc cách mạng dân chủ sẽ rất dài và khó khăn. Cả hai chuyên gia đều đã rời nhóm sau đó trong tình bạn; họ hoàn toàn đồng ý với những suy nghĩ chung nhưng họ tự thấy không đủ kiên nhẫn. Anh bạn chọn con đường hợp tác để thay đổi chế độ từ bên trong. Anh nói if you can't beat them, join them (nếu không đánh bại được họ thì hãy hợp tác với họ). Anh là một người thực tiễn.

Trước hết chúng tôi coi chấm dứt độc tài và thiết lập dân chủ là một cuộc cách mạng rất lớn và nghiên cứu những điều kiện để một cuộc cách mạng thành công. Chúng tôi tìm ra bốn điều kiện vừa cần vừa đủ:

1/ người dân trong nước đồng thuận rằng chế độ hiện có là tệ hại và phải thay đổi;

2/ đảng hoặc nhóm cầm quyền mất lý tưởng, trở thành đạo tặc, chia rẽ nội bộ và không còn sức sống và khả năng tự vệ của một tập thể;

3/ người dân trong nước đồng thuận về một chế độ mới phải có; và

4/ có một tổ chức đủ mạnh để làm tụ điểm cho nguyện vọng đổi mới.

Vào thời điểm 1984, khi chúng tôi nhận ra những điều kiện này, tình hình Việt Nam đúng là chưa chín muồi. Người dân trong Nam cũng như ngoài Bắc quả là rất thất vọng với chính quyền cộng sản nhưng đảng cộng sản dù rất bối rối cũng còn khá gắn bó. Mặt khác chưa có đồng thuận dân tộc về một chế độ mới; đa số đảng viên cộng sản vì nhiều lý do khác nhau còn gắn bó với đảng trong khi đa số những người đấu tranh tại hải ngoại chỉ muốn lập lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Trong bốn điều kiện này điều kiện thứ tư, nghĩa là tổ chức, là điều kiện quan trọng nhất và cũng là điều kiện hoàn toàn thiếu vắng, thậm chí còn có những trở ngại. Vì thế chúng tôi đã nghiên cứu và thảo luận nhiều nhất về tiến trình thành lập và hành động của một đảng cách mạng. Và kết luận đã rất đặc sắc. Nó trái ngược hẳn với thành kiến chung không biết từ đâu mà có của trí thức Việt Nam về đấu tranh chính trị. Chúng tôi đã nhận diện năm giai đoạn đấu tranh cách mạng:

1/ xây dựng một tư tưởng chính trị;

2/ xây dựng một đội ngũ nòng cốt;

3/ xây dựng và kiểm điểm phương tiện;

4/ xây dựng cơ sở quần chúng;

5/ vận động quần chúng đứng dậy và tiến công giành chính quyền.

Kinh nghiệm các cuộc cách mạng lớn cho thấy trong năm giai đoạn này hai giai đoạn đầu khó khăn và dài nhất. Phải vài thập niên mới xây dựng được một tư tưởng chính trị đúng nghĩa và một đội ngũ nòng cốt đúng nghĩa, nhưng một khi đã có hai yếu tố này rồi thì tổ chức có thể vận dụng một cơ hội để giành thắng lợi trong vàì năm, thậm chí vài tháng.

Đối chiếu với tình hình Việt Nam chúng tôi nhận định rằng thời gian để xậy dựng tổ chức có thể còn lâu hơn do di sản văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam, nhất là trí thức, không những không có tổ chức mà còn dị ứng với tổ chức, hay nếu có nhìn thấy sự cần thiết của tổ chức thì cũng không hiểu sự khó khăn của nó, và thường nhảy xổ vào giai đoạn vận động quần chúng nổi dậy, nghĩa là giai đoạn cuối cùng của tiến trình đấu tranh. Không khác gì chỉ muốn hái quả mà không chịu trồng cây. Những manh động như vậy chỉ có thể thất bại và gây thất vọng. Chúng tôi kết luận: dù phải kiên trì trong nhiều thập niên, nghĩa là dài hơn vốn thời gian hoạt động của hầu hết anh em chúng tôi, cũng phải xây dựng tổ chức vì không có chọn lựa nào khác. Chính kết luận này, mà tất cả chúng tôi đều hoàn toàn nhất trí, đã khiến hai anh bạn chuyên gia rời tổ chức. Bình thường người ta chia tay vì không đồng ý, ở đây chúng tôi chia tay vì đồng ý. Chúng tôi vẫn là bạn.

Ngay cả giai đoạn vận động quần chúng mà nhiều người và tổ chức cho là công việc duy nhất của cuộc đấu tranh vì dân chủ cũng không như họ tưởng. Đã có vô số kinh nghiệm và nghiên cứu về chủ đề này và tất cả đều có cùng một kết luận là một khối quần chúng dù đông đảo và bị ức hiếp đến đâu cũng không nổi dậy đánh đổ tập đoàn thống trị. Họ chỉ nổi dậy khi đã hội đủ hai điều kiện :

- Một là họ ý thức một cách rõ rệt rằng họ là một khối người liên đới với nhau trong một số phận chung đang bị một nhóm người khác ức hiếp. Nói cách khác, một mặt, phải có một giải pháp chung cho tất cả chứ mỗi người không thể luồn lách để tự giải quyết những vấn đề cá nhân bằng những giải pháp cá nhân; và, mặt khác, phải có sự hiện hữu được nhận diện một cách rõ rệt của hai tập thể : một tập thể ta và một tập thể địch.

- Hai là quần chúng chỉ đứng dậy tranh đấu nếucó mộttổ chức để động viên và lãnh đạo họ và tổ chức này phải đủ mạnh để đem lại cho họ niềm tin vào thắng lợi. Quần chúng không lãng mạn.

Chưa xây dựng được một tổ chức mạnh thì không động viên được quần chúng, cùng lắm chỉ động viên được một số nhỏ, rồi thất bại và gây thất vọng, như kinh nghiệm của hơn ba mươi năm qua đã chứng tỏ.

Chuyển động xã hội đưa đến cuộc cách mạng thay đổi chế độ diễn ra như thế nào? Điều kiện thứ hai trong bốn điều kiện cần và đủ để một cuộc cách mạng thành công là đảng cầm quyền mất lý tưởng và phân hóa để chỉ còn là một hư cấu, chế độ chuyển từ độc tài đảng trị sang độc tài cá nhân. Từ đó, bất mãn và phẫn nộ tập trung vào một khuôn mặt cụ thể và dễ bộc lộ hơn trong khi đàn áp cũng gia tăng một cách tự nhiên vì quyết định nằm trong tay một người và người đó lại chính là đối tượng bị chống đối. Vòng xoắn leo thang phẫn nộ - chống đối – đàn áp - chống đối này sẽ đưa nhiều thành phần xã hội nhập cuộc đấu tranh cho dân chủ. Kinh nghiệm cho thấy trong hầu như mọi trường hợp chuyển hóa về dân chủ các thành phần này thường nhập cuộc theo cùng một thứ tự đã được nhiều nghiên cứu xác định, đặc biệt là một công trình nghiên cứu rất công phu của Trung Tâm Woodrow Wilson Center, cho đến nay chưa bị phản bác, qui tụ một số lượng đông đảo những nhà nghiên cứu có uy tín trong hơn hai năm từ 1979 đến 1981.

-Đầu tiên là giới văn nghệ sĩ, những người cần tự do nhất để có thể sáng tạo đồng thời cũng là những người có bản chất phóng khoáng và chính quyền cũng không lo ngại. Lớp người này tuy ít và hiểu biết chính trị sơ sài nhưng lại có một khả năng động viên lớn do sức thu hút quần chúng của họ.

-Kế tiếp là thành phần cởi mở trong đảng cầm quyền và bộ máy nhà nước. Cần nhấn mạnh rằng mục đích ban đầu của thành phần này không phải là thay đổi chế độ mà là bảo vệ chế độ. Một phần vì cảm thấy không được đãi ngộ xứng đáng, một phần vì sáng suốt, họ tin rằng chế độ không thể tồn tại như hiện trạng và họ vận động cải tiến nó để giúp nó tiếp tục tồn tại. Chỉ sau khi những cố gắng này chứng tỏ rõ ràng là tuyệt vọng họ mới đứng về phe dân chủ.

-Sau đó là các tập hợp ngành nghề, như các đoàn thể nhà báo, luật gia, y sĩ, kiến trúc sư, nhà giáo, nhà nông v.v. Tất cả đều bực bội vì ngành nghề của họ bị bế tắc do chính quyền. Đặc tính chung của những chế độ độc tài tham nhũng là tất cả mọi ngành nghề đều bị chèn ép, quyền lợi tập trung trong tay một vài băng đảng tay chân của chính quyền, vì thế mỗi tập thể đều là một trái bom nổ chậm và khi một ngành đứng dậy phản đối thì một cách nhanh chóng các ngành nghề khác cũng hưởng ứng theo.

-Sau cùng là tuổi trẻ, thanh niên và sinh viên. Khi tuổi trẻ đã nhập cuộc một cách đông đảo thì sự sụp đổ của chính quyền là điều chắc chắn.

Những nghiên cứu này có thể giúp giải thích biến cố Thiên An Môn năm 1989 trong đó sinh viên Trung Quốc đã nổi dậy và bị tàn sát nhưng sau đó chính quyền cộng sản Trung Quốc vẫn đứng vững. Đó là vì tuổi trẻ Trung Quốc đã nổi dậy bồng bột và đơn độc trong một xã hội chưa sẵn sàng. Con số 10.000 sinh viên trong một nước với 1.300 triệu người cũng là một tỷ lệ quá nhỏ. Chúng cũng giải thích tại sao tình hình Việt Nam đã không chuyển động cho tới nay, đồng thời cho phép đánh giá mức độ chín muồi của tiến trình dân chủ hóa tại nước ta.

Giới văn nghệ sĩ Việt Nam đã bất động; họ không cần tự do vì không có nhu cầu sáng tạo. Văn học và nghệ thuật Việt Nam không sáng tạo và do đó không làm nảy sinh nhu cầu đòi tự do. Điều này chúng ta có thể thấy rõ, văn nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại không bị kềm kẹp nhưng cũng không có sáng tạo nào dù những thảm kịch của giai đoạn lịch sử vừa qua đã có thể là chủ đề cho những tác phẩm rất lớn, các ca sĩ hát đi hát lại những bản nhạc đã quá cũ về cả nhạc lẫn lời và ý. Chỉ mới gần đây mới có những hiện tượng Việt Khang, Kim Chi v.v. Hy vọng đó là những con én báo mùa xuân.

Các tập thể nghề nghiệp cũng không nhiều tâm sự. Kể cả hai tập thể đông đảo đáng lẽ phải rất đau nhức là giới nhà báo và giới luật gia. Họ bị bắt buộc phải hàng ngày phản bội nghề nghiệp và danh dự của mình, nhà báo phải xuyên tạc, thẩm phán phải xử ngược với luật pháp và lương tâm, luật sư không được bào chữa tận tình. Thậm chí cơ quan lập pháp cao nhất, quốc hội, cũng là cơ quan quyền lực cao nhất trên danh nghĩa, cũng không hề phiền lòng khi luật pháp và hiến pháp bị vi phạm thô bạo. Chắc chắn tuyệt đại đa số "đại biểu" tin chắc rằng vai trò của quốc hội chỉ là để làm công cụ cho chính phủ và không cần thắc mắc.

Vậy phải chăng chỉ còn trông đợi ở những "thành phần sáng suốt" trong đảng và nhà nước cộng sản? Không ít người tin như vậy, nghĩa là Việt Nam chỉ có thể thay đổi nhờ một "Gorbachev Việt Nam" hay là nhờ đảng cộng sản tự vỡ, tự tách. Nếu như thế thì còn phải chờ đợi rất lâu vì các "thành phần sáng suốt" này hoặc chỉ muốn chấn chỉnh đảng để có thể chống lại dân chủ, hoặc chỉ lên tiếng kêu gọi dân chủ một cách rụt rè sau khi đã trở thành những vị "nguyên là". Các xung khắc trong nội bộ đảng và nhà nước cộng sản có và ngày càng nhiều nhưng vẫn chưa đủ mạnh để đẩy một cấp lãnh đạo thất vọng nào vào hàng ngũ dân chủ.

Một số người, chủ yếu ở hải ngoại, hy vọng khối dân oan sẽ là chủ lực của cuộc tiến công giành dân chủ. Nhưng khối dân oan là một khối cần được giúp đỡ hơn là một lực lượng. Họ không phải là một tập thể liên đới. Họ đi cùng nhau nhưng không có đòi hỏi chung. Họ chỉ có thể hưởng ứng và tăng cường cuộc nổi dậy đòi dân chủ chứ không thể là chủ lực.

Nhưng tại sao các thành phần đáng lẽ phải đi đầu trong đấu tranh dân chủ hóa lại bất động như thế? Đó là vì mọi thành phần xã hội đều phải do trí thức lãnh đạo, nhất là trong kỷ nguyên tri thức này, trong khi trí thức Việt Nam nhất định không chịu đảm nhiệm vai trò của mình. Thay đổi từ độc tài sang dân chủ là một cuộc cách mạng lớn, rất lớn, nhưng trí thức Việt Nam, hậu duệ của giai cấp sĩ ngày xưa, chỉ có văn hoá làm quan chứ không có văn hóa cách mạng, họ được đào tạo và tự đào tạo để làm công cụ cho một chế độ chứ không phải để thay đổi chế độ. Cái kẹt của chúng ta là thế. Quần chúng Việt Nam đã chín muồi cho một cuộc chuyển động về dân chủ nhưng trí thức thì không. Chúng ta giống như một đoàn tàu mà các toa tầu đều đã sẵn sàng nhưng động cơ chưa chạy. Tình trạng này không mới, nó chỉ là sự tiếp nối của một di sản lịch sử và văn hóa. Do ảnh hưởng tồi tệ của Khổng Giáo, một hằng số trong lịch sử Việt Nam và Trung Hoa là những thay đổi chế độ đều hoàn toàn không do kẻ sĩ mà do những vương tôn, những võ tướng hay những anh hùng áo vải xuất phát từ quần chúng.

Trí thức Việt Nam thừa hưởng của giai cấp sĩ ít nhất hai tật nguyền nặng nề.

Một là họ hoàn toàn không có văn hóa chính trị. Những sĩ tử đậu những khoá thi thơ phú vớ vẩn được cử làm quan trị dân để lại cho lớp hậu duệ thành kiến tệ hại là làm chính trị không cần phải học. Trí thức Việt Nam không có kiến thức chính trị không phải vì không học nổi mà vì không thấy cần phải học.

Tật nguyền thứ hai, còn nghiêm trọng hơn, là họ không yêu nước. Tổ quốc trước hết là đồng bào, yêu nước trước hết là quí trọng đồng bào của mình nhưng mộng đời của kẻ sĩ trong hàng ngàn năm đã chỉ là được làm quan để "giúp vua trị nước", nghĩa là làm tay sai cho một bạo quyền để thống trị và bóc lột quần chúng. Trong mỗi trí thức Việt Nam đều mai phục một tên phản quốc. Đó là lý do khiến trí thức Việt Nam không phẫn nộ trước một chính quyền kéo đất nước vào thảm họa một cách hung bạo, hay không đủ phẫn nộ để thấy phải có phản ứng.

Trí thức Việt Nam vẫn chứng tỏ chưa khắc phục được hai tật nguyền truyền kiếp này.

Nói như thế không có nghĩa là đất nước không có lối thoát. Trí thức Việt Nam về kiến thức và kỹ năng không thua kém trí thức nhiều nước dân chủ phát triển. Họ thiếu ý chí, nhưng ngay về điểm này họ cũng đã thay đổi khá nhiều. Tâng bốc chế độ cộng sản là điều không một trí thức nào còn đủ trơ trẽn để làm nữa. Anh bạn tôi kể chuyện một trí thức khá nổi tiếng từng đóng góp nhiều cho thắng lợi của đảng cộng sản. Vị này nói rằng: "Có lẽ chúng tôi lại sắp phải hy sinh một lần nữa". "Chúng tôi" là những vị "nguyên là" đã từng có danh phận trong chế độ. Hơi muộn, nhưng cũng còn hơn không.

Nhưng hy vọng không phải ở đó. Hy vọng vì một lý do khác. Lớp trí thức cũ có thức tỉnh và nhập cuộc thì càng tốt nhưng họ không còn là thành phần không có không được nữa. Một lớp trí thức mới đã xuất hiện và ngày càng đông đảo. Họ không phải chỉ là những sinh viên. Các sinh viên chỉ là một thiểu số. Trong đại đa số họ là những người ở lứa tuổi 25 – 45, đã tốt nghiệp và đã tự lập. Họ gặp nhau, kết bạn và trao đổi với nhau trên mạng qua các Blog, Twitter, Facebook. Họ đã thất vọng với thế hệ cha anh và có lý. Thế hệ F. Họ ngày càng đông đảo và những trao đổi của họ càng ngày càng có chất lượng. Thực tế cơ bản của Việt Nam hiện nay là đang có hai không gian chính trị, một không gian thực trong đó người ta bắt buộc phải nói dối và một không gian ảo trong đó người ta nói thực. Chính quyền cộng sản khống chế không gian thực nhưng đã bị đánh bật khỏi không gian ảo mặc dù những phương tiện khổng lồ và một đội ngũ công an mạng hùng hậu bởi vì không có gì để nói. Dùi cui và chó nghiệp vụ không thể sử dụng trên mạng. Trong thế giới ngày nay không gian mạng quan trọng hơn hẳn không gian thực và ngày càng áp đảo hơn nữa. Đã thất bại trên không gian mạng thì chắc chắn sẽ thất bại trên thế giới thực. Một sản phẩm của không gian mạng là lớp người mà Việt Nam mong đợi nhưng chưa có: lớp trí thức chính trị. Thắng lợi của dân chủ sẽ tới khi lớp trí thức này đủ mạnh và gắn bó để dắt tay nhau từ không gian mạng bước ra đời thực. Quần chúng đã chín muồi và đang chờ đợi họ.

Bao giờ? Không ai có thể quả quyết, chỉ biết chắc một điều là đặc tính của không gian mạng là sự nhanh chóng.

Chúng ta cũng có thể đóng góp để tiến trình này nhanh chóng hơn. Lớp người lớn tuổi bằng thái độ khuyến khích và hợp tác khiêm tốn. Lớp trẻ bằng cách dứt khoát đoạn tuyệt với văn hóa nhân sĩ của tầng lớp cha anh và quả quyết sống như những con người tự do, quả quyết sống khác với cách cha anh mình đã sống. Họ sẽ hiểu, họ đang hiểu, rằng tự do và dân chủ không bao giờ miễn phí mà luôn luôn đòi hỏi phấn đấu và hy sinh để có. Và một khi đã quyết định đấu tranh tranh thực sự họ sẽ hiểu rằng chỉ có thể giành thắng lợi cho dân chủ nếu xây dựng được một tổ chức dân chủ có tầm vóc. Họ cũng sẽ hiểu phải làm gì và như thế nào trong mỗi chặng đường.

Nguyễn Gia Kiểng
Nguồn: http://ethongluan.org
(tháng 01/2013), [2-chin-moi-den-muc-nao-nguyen-gia-kieng].

Đăng nhận xét